TS. TRẦN THỊ NHƯ QUỲNH(*)

(*) Học viện Chính trị khu vực II, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Tóm tắt: Sau sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, cùng những bước thoái trào của phong trào công nhân trên thế giới, vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân tiếp tục bị các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận trắng trợn. Ở Việt Nam, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân, trong đó có công nhân, đã và đang tỏ ra hoài nghi về vai trò, sứ mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam. Từ thực tiễn đó, bài viết tập trung làm rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, nhất là thời kỳ đổi mới, nhằm khẳng định giá trị khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác về vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, góp phần nâng cao tinh thần đấu tranh chống lại sự phá hoại của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng.
Từ khóa: chủ nghĩa Mác – Lênin; giai cấp công nhân; sứ mệnh lịch sử; Việt Nam

1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân
Vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nghiên cứu sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát hiện ra vai trò lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh cách mạng xóa bỏ chế độ tư bản và xây dựng chế độ xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, các ông đã viết: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng”(1). Chỉ có giai cấp công nhân mới có thể lãnh đạo được toàn thể người lao động trong cuộc đấu tranh chống tư bản, đủ sức tập tan mọi sự phản kháng của bọn tư bản và dẫn dắt nhân dân đến một nền hòa bình lâu dài.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được thể hiện cụ thể ở các nội dung sau:
Thứ nhất, nội dung về kinh tế: giai cấp công nhân phải là lực lượng thể hiện và thực hiện vai trò chủ thể của nền sản xuất công nghiệp hiện đại để sản xuất ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người, tạo tiền đề vật chất – kỹ thuật cho sự ra đời của chế độ xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. Đây là nhiệm vụ cơ bản và quan trọng nhất trong thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, là điều kiện vật chất để chủ nghĩa xã hội chiến thắng chủ nghĩa tư bản.
Thứ hai, nội dung về chính trị – xã hội: Thông qua sự lãnh đạo của đảng cộng sản, giai cấp công nhân cùng nhân dân lao động tiến hành cách mạng chính trị lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa và các chế độ áp bức, bóc lột khác để xây dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Đây là nhiệm vụ khó khăn và phức tạp, đòi hỏi giai cấp công nhân phải bền bỉ trong suốt tiến trình thực hiện gắn với các nhiệm vụ cụ thể, như: xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy quyền làm chủ rộng rãi của nhân dân lao động; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh bảo đảm vai trò lãnh đạo, quản lý kinh tế – xã hội một cách có hiệu quả; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công – nông – trí; đấu tranh đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực của xã hội…
Thứ ba, nội dung về văn hóa – tư tưởng: Thông qua sự lãnh đạo của đảng cộng sản, giai cấp công nhân tiến hành cuộc cách mạng văn hóa nhằm xác lập hệ tư tưởng tiến bộ của mình trong toàn xã hội, đấu tranh chống lại các tư tưởng phản động, bảo thủ, lạc hậu… tạo điều kiện cho con người phát triển tự do và toàn diện trong một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
2. Tình hình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đổi mới
Là một bộ phận của giai cấp công nhân thế giới, giai cấp công nhân Việt Nam cũng có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân thế giới và chịu sự quy định của các điều kiện kinh tế, chính trị – xã hội trong đảm nhận và thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Chính vì vậy, ngay từ khi mới ra đời, giai cấp công nhân Việt Nam đã thể hiện là một lực lượng tiên phong, cách mạng trong lãnh đạo nhân dân lao động tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đi đến thắng lợi, đưa đất nước từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong công cuộc đổi mới, giai cấp công nhân Việt Nam tiếp tục thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình và đã đạt được những thành tựu to lớn. Cụ thể:
Một là, trên lĩnh vực kinh tế
Gần 40 năm qua, kể từ khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến quan trọng. Hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng xã hội to lớn với khoảng 14,8 triệu người, chiếm hơn 14% dân số và hơn 29% lực lượng lao động toàn xã hội(2).
“Tập đoàn người” đó hiện đang có mặt ở hầu hết các lĩnh vực, các thành phần kinh tế, trực tiếp tham gia vận hành và sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội. Họ không chỉ là những người lao động sản xuất vật chất trực tiếp, mà còn cả lao động gián tiếp; không chỉ trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, mà còn cả lĩnh vực dịch vụ công nghiệp và dịch vụ có tính chất công nghiệp, đặc biệt là bộ phận công nhân trong những lĩnh vực này ngày càng phát triển nhanh chóng cùng với quá trình phát triển kinh tế – xã hội của cả nước. Hiện cơ cấu giai cấp công nhân nước ta trong các ngành kinh tế là: ngành công nghiệp, chế tạo chiếm 51,33%; ngành xây dựng chiếm 9,24%; thương mại, dịch vụ chiếm 27,92%; vận tải chiếm 4,63%; các ngành khác chiếm 6,88%(3). Trong đó, công nhân tập trung chủ yếu ở khối doanh nghiệp ngoài nhà nước, với 58,14% thuộc doanh nghiệp tư nhân trong nước, 35,25% trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và chỉ 6,61% thuộc doanh nghiệp nhà nước(4).
Giai cấp công nhân Việt Nam không chỉ là những người lao động chân tay mà có cả những người lao động trí óc với trình độ học vấn và chuyên môn cao; không chỉ là những người lao động sản xuất vật chất giản đơn, mà còn tham gia ở những lĩnh vực sản xuất vật chất phức tạp, với hàm lượng chất xám kết tinh trong sản phẩm chất lượng cao trong lĩnh vực điện tử, dầu khí, viễn thông, điện lực, cơ khí tự động, công nghiệp chế biến, công nghệ hóa học, công nghệ sinh học và các lĩnh vực công nghệ cao khác. Bộ phận công nhân lao động trí óc trong những lĩnh vực sản xuất vật chất phức tạp chính là công nhân trí thức mà Đảng đã khẳng định trong các văn kiện, nghị quyết. Trong tổng số lao động nước ta, khoảng 26,4% lao động đã qua đào tạo, trong đó 15,6% lao động có trình độ cao đẳng, đại học(5). Nếu phân theo trình độ công nghệ, chỉ tính riêng trong ngành chế biến, chế tạo, công nhân có trình độ công nghệ cao chiếm 21,87%, công nhân có trình độ công nghệ trung bình chiếm 14,68%(6). Chắc chắn rằng, kinh tế – xã hội càng phát triển, đặc biệt là sự ra đời và phát triển của kinh tế tri thức, sẽ làm cho bộ phận công nhân trình độ thấp, lao động giản đơn ngày càng giảm, thay vào đó là bộ phận công nhân trí thức với trình độ học vấn và chuyên môn cao sẽ ngày càng tăng.
Những chuyển biến tích cực của giai cấp công nhân có ý nghĩa rất to lớn, là điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện ngày một tốt hơn sứ mệnh lịch sử của mình trong thời kỳ đổi mới. Không ai khác, họ chính là lực lượng đi đầu, chủ đạo trong thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng (chủ yếu dựa vào tăng vốn, lao động giá rẻ, khai thác tài nguyên thiên nhiên) dần sang chiều sâu (chủ yếu dựa vào sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tiến bộ khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo), tăng trưởng dựa nhiều hơn vào gia tăng năng suất lao động (giai đoạn 2016 – 2020, bình quân tăng 5,8%/năm, cao hơn giai đoạn 2011 – 2015 (4,3%) và vượt mục tiêu đề ra (5%)(7); trong thúc đẩy và quyết định sự thành công của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; đóng góp nhiều nhất trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của cả nước với mức đóng góp hơn 70% nguồn thu ngân sách quốc gia, tạo ra hơn 65% sản phẩm và các dịch vụ tiện ích cho xã hội hằng năm(8).
Hai là, trên lĩnh vực chính trị – xã hội
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Giai cấp công nhân, thông qua Đảng cộng sản với hệ tư tưởng tiến bộ, khoa học và cách mạng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện sứ mệnh lịch sử xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam.
Trải qua thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng, phát triển về tư duy lý luận và năng lực lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Với sự lãnh đạo của Đảng, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, ngày càng phát triển, góp phần khẳng định và nâng tầm vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Việt Nam từ một đất nước nghèo nàn, có cơ sở vật chất – kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội lạc hậu, trình độ thấp, đến nay đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, được thế giới đánh giá là “ngôi sao sáng của châu Á”, xếp vào nhóm 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới; đứng thứ 49 về phát triển bền vững trên thế giới trong khi thu nhập bình quân đầu người còn ở hạng ngoài 100; và có hơn 70 quốc gia thừa nhận nền kinh tế Việt Nam là kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam(9).
Công tác an sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Nếu như năm 1985, bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm thì đến năm 2022 đạt khoảng 4.100 USD/năm, xếp thứ 6/11 nước trong khu vực Đông Nam Á và thứ 117 trên thế giới(10). Công tác giảm nghèo đạt được những thành tựu ấn tượng, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm còn dưới 3% năm 2020(11). Diện bao phủ bảo hiểm xã hội được mở rộng với hơn 16,1 triệu người tham gia, chiếm trên 33% lực lượng lao động trong độ tuổi(12). Chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục, đào tạo và dạy nghề được nâng lên. Việt Nam là một trong số ít quốc gia có hệ thống y tế hoàn chỉnh, tổ chức rộng khắp tới thôn, bản; làm chủ được nhiều kỹ thuật công nghệ cao mang tầm thế giới; kiểm soát được nhiều dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có COVID-19… Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật chất được nâng cao, chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực.
Chính trị – xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế, là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao trong các tổ chức quốc tế. Từ một quốc gia bị bao vây, cấm vận, đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới(13), xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có tất cả 05 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Năm 2020, Việt Nam đảm nhận các trọng trách quốc tế quan trọng là Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch AIPA-41 và trúng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 – 2021 với số phiếu cao kỷ lục 192/193 phiếu(14). Điều này cho thấy sự tín nhiệm và tình cảm của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam.
Chính vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam luôn được nhân dân tin yêu, đồng tình ủng hộ, tự nguyện suy tôn là lực lượng giữ địa vị lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Giai cấp công nhân thật sự trở thành lực lượng nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc xây dựng một xã hội tiến bộ, tốt đẹp với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Ba là, trên lĩnh vực văn hóa – tư tưởng
Hệ tư tưởng của giai cấp công nhân Việt Nam là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, được hình thành trên cơ sở kế thừa có chọn lọc thành tựu văn minh nhân loại; bổ sung, phát triển lý luận và tổng kết thực tiễn, cùng những dự báo khoa học. Ngay từ Đại hội lần thứ VII của Đảng (năm 1991), trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”(15). Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đều trên cơ sở vận dụng sáng tạo hệ tư tưởng đó vào thực tiễn Việt Nam.
Thông qua các tổ chức của mình và bằng nhiều hình thức khác nhau, giai cấp công nhân không ngừng truyền bá, phổ biến, giáo dục, nâng cao tinh thần đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng lý luận cho cán bộ, đảng viên, công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động để bảo vệ giá trị khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chống lại và phản bác những luận điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch; kiên định mục tiêu, lý tưởng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân còn có những hạn chế nhất định.
Vai trò lãnh đạo của một số cấp ủy, tổ chức đảng có lúc, có nơi bị buông lỏng. Nhiều vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới chưa được làm sáng tỏ để phục vụ việc hoạch định chiến lược, chủ trương, chính sách của Đảng, tăng cường sự nhất trí về chính trị, tư tưởng trong xã hội. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong, gương mẫu; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” vẫn còn diễn biến phức tạp…, ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực, hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế – xã hội, đến uy tín của Đảng, niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Trình độ của giai cấp công nhân còn thấp nên năng suất lao động chưa cao, chưa hoàn thành được mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Theo kết quả khảo sát của Tổ chức Lao động quốc tế, năng suất lao động của công nhân Việt Nam thuộc vào nhóm thấp nhất của khu vực, chỉ bằng 1/5 Malaysia, 2/5 Thái Lan, 1/15 Singapore, 1/11 Nhật Bản, 1/10 Hàn Quốc, dự báo phải đến năm 2038 năng suất lao động của công nhân Việt Nam mới bắt kịp Philippines, năm 2069 mới bắt kịp được Thái Lan(16). Nhiều công nhân chưa ý thức được vị trí và vai trò, còn có tâm lý làm thuê, không thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị – xã hội nên chưa phát huy được vai trò, địa vị của mình trong sự nghiệp đổi mới. Đời sống và điều kiện sinh hoạt của giai cấp công nhân còn khó khăn, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân chưa được bảo vệ, bảo đảm, chưa xứng tầm là một lực lượng lãnh đạo xã hội.
3. Giải pháp cơ bản để giai cấp công nhân Việt Nam tiếp tục thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử trong thời kỳ đổi mới
Một là, xây dựng và phát triển giai cấp công nhân lớn mạnh, hiện đại, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân. Do vậy, để giai cấp công nhân Việt Nam phát huy mạnh mẽ vai trò của mình đối với sự phát triển của đất nước trong thời kỳ mới, Đảng xác định: “Xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”(17). Theo đó, nhiệm vụ trung tâm trong việc xây dựng, phát triển giai cấp công nhân hiện nay chính là “trí thức hóa công nhân”, nâng cao trình độ và năng lực ứng dụng, sáng tạo công nghệ mới, tạo ra năng suất lao động ngày càng cao, tiến kịp với các nước trong khu vực và trên thế giới, tiến tới hình thành ngày càng đông đảo đội ngũ công nhân trí thức. Để làm tốt nhiệm vụ đó cần:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao trên cơ sở đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, sử dụng công nghệ thông tin tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực và quốc tế, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Hình thành hệ thống đào tạo kỹ thuật thực hành với nhiều cấp trình độ, củng cố mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp trong lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ. Tăng cường sự liên kết giữa các trường đại học, cao đẳng với các viện nghiên cứu và các doanh nghiệp.
Thứ hai, phát triển mạnh đào tạo nghề cho công nhân trên cơ sở gắn kết giữa đào tạo và sử dụng. Chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí cho các trường dạy nghề, ưu tiên xây dựng các trung tâm dạy nghề chất lượng cao theo tiêu chí trình độ khoa học công nghệ hiện đại trên thế giới, xây dựng một số trường dạy nghề chuẩn, chương trình chuẩn trong cả nước, để đào tạo những ngành, nghề mũi nhọn và để công nhân tiếp cận được với sự thay đổi nhanh chóng của khoa học – kỹ thuật, công nghệ. Thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa giáo dục, trong đó phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa chính quyền các cấp với doanh nghiệp.
Thứ ba, thường xuyên giáo dục tư tưởng chính trị cho giai cấp công nhân, nhất là công nhân trẻ, để mỗi công nhân nhận thức được vị trí và vai trò của giai cấp mình đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh việc giáo dục ý thức giai cấp, ý thức dân tộc, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tính tổ chức kỷ luật và tác phong lao động công nghiệp cho công nhân, cần kết hợp với tổ chức hành động chính trị, đi đôi với việc “chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, nhà ở và phúc lợi xã hội cho công nhân; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân”(18). Giáo dục chính trị không tách rời việc giải quyết mâu thuẫn, vướng mắc, các vấn đề bức xúc mà công nhân hiện nay quan tâm.
Hai là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về mọi mặt
Với ý nghĩa là nhân tố chủ quan cơ bản hàng đầu, quyết định nhất trong thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, nên yêu cầu đặt ra là phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về mọi mặt. Cụ thể:
Thứ nhất, xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện trên các mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Về chính trị, đó là quá trình xây dựng cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan và tổ chức thực hiện thắng lợi cương lĩnh, đường lối đó trong thực tiễn, bảo đảm cho vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng không ngừng được củng cố và nâng cao. Về tư tưởng, đó là giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng, nâng cao bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng, niềm tin của cán bộ, đảng viên đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa; tạo sự đoàn kết thống nhất về tư tưởng, ý chí và hành động trong Đảng và toàn xã hội. Về đạo đức, đó là quá trình tạo lập uy tín và lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Về tổ chức và cán bộ, đó là quá trình sàng lọc cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất; kiên quyết không để những kẻ cơ hội núp bóng tổ chức để mưu lợi cho bản thân. Đây là bốn mặt và cũng là những nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, có quan hệ mật thiết với nhau và là tiền đề của nhau.
Thứ hai, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Đảng phải kiên định mục tiêu, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình lãnh đạo phát triển đất nước; thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân trong xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên; chú trọng phát triển đảng viên từ công nhân. Đảng phải không ngừng thắt chặt mối quan hệ với giai cấp công nhân và nhân dân, bảo đảm lợi ích và hài hòa lợi ích của các giai tầng trong xã hội; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng nhằm ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng.
Thứ ba, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Đảng nâng cao năng lực lãnh đạo trong định hướng đường lối, chiến lược; đề ra chủ trương, chính sách; tổ chức và chỉ đạo thực hiện; kiểm tra, giám sát công việc của Đảng; tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận… Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội nhằm xây dựng, phát triển đất nước theo con đường, mục tiêu đã chọn chính là thể hiện năng lực cầm quyền của Đảng. Thông qua việc thực hiện lý tưởng cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; kiên quyết đấu tranh làm thất bại các quan điểm sai trái, hành động chống phá của các thế lực thù địch; nâng cao bản lĩnh chính trị chiến đấu với những hiện tượng tiêu cực, thoái hóa trong Đảng, trong xã hội, trong chính bản thân mỗi người của các tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên là sự biểu hiện tập trung nhất sức chiến đấu của Đảng.
Lịch sử xây dựng và trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam luôn gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng. Do vậy, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng là vấn đề có ý nghĩa sâu sắc, bảo đảm cho giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình.
Tóm lại, mặc dù giai cấp công nhân Việt Nam còn có hạn chế nhất định trong thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, nhưng nhìn lại chặng đường cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua, giai cấp công nhân đã đạt được nhiều thành tựu trong việc lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động từ thân phận bị áp bức, bóc lột trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Ngày nay, bước vào giai đoạn phát triển mới, giai cấp công nhân vẫn đang tiếp tục thực hiện và phát huy mạnh mẽ vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đảng khẳng định: “giai cấp công nhân nước ta… đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; có nhiều cố gắng để phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp công nhân đã đóng góp trực tiếp to lớn vào quá trình phát triển của đất nước, cùng với các giai cấp, tầng lớp và thành phần xã hội khác, giai cấp công nhân nước ta là cơ sở chính trị – xã hội vững chắc của Đảng và Nhà nước”(19)./.

——————————————–

(1) C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.610
(2), (3), (4), (5) và (6) Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2022, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2023, tr.393, 415-418, 412, 179 và 541
(7) và (8) Nguyễn Phi Long, Đổi mới tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế trong bối cảnh đại dịch Covid-19, https://tuyengiao.vn/dua-nghi-quyet-cua-dang-vao-cuoc-song/doi-moi-mo-hinh-tang-truong-va-co-cau-lai-nen-kinh-te-trong-boi-canh-dai-dich-covid-19-137994, ngày 02/3/2022
(9) Đặng Quang Định, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tạp chí CJộng sản điện tử, ngày 18/7/2021
(10) Hoài Thương, GDP của Việt Nam thay đổi như thế nào sau 22 năm, https://taichinhdoanhnghiep.net.vn/gdp-binh-quan-viet-nam-thay-doi-the-nao-sau-22-nam d37974.html#:~:text=Sau%2022%20năm%2C%20GDP%20bình,thứ%20124%20trên%20thế%20giới, ngày 04/4/2023
(11), (17) và (18) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 65, 166 và 166
(12) PV, Bảo hểm xã hội tự nguyện: 13 năm “một chặng đường” là của để dành cho người dân, https://baohiemxahoi.gov.vn/UserControls/Publishing/News/BinhLuan/pFormPrint.aspx?UrlListProcess=/content/tintuc/Lists/News&ItemID=16190&IsTA=False, ngày 05/02/2021
(13) Hà Nhân, Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với quốc gia thứ 193 trên thế giới, https://tienphong.vn/viet-nam-thiet-lap-quan-he-ngoai-giao-voi-quoc-gia-thu-193-tren-the-gioi-post1571265.tpo, ngày 22/9/2023
(14) Đại sứ quán Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Cộng hòa Áo, Những thành tựu nổi bật của Việt Nam trong tiến trình đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước, https://vnembassy-vienna.mofa.gov.vn/vi-vn/News/EmbassyNews/Trang/Những-thành-tựu-nổi-bật-của-Việt-Nam-trong-tiến-trình-đổi-mới,-hội-nhập-và-phát-triển-đất-nước-.aspx
(15) Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.21
(16) Vũ Quang Thọ, Không thể đem năng suất lao động ra mặc cả, Báo Lao động, ngày 19/10/2015
(19) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.44-45

(Tạp chí Khoa học Chính trị Số 10_2023)