TS. NGUYỄN THỊ TRÂM(*)

(*) Học viện Chính trị khu vực II, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Tóm tắt: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) quán triệt hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Việt Nam xây dựng nền quốc phòng toàn dân, phát huy sức mạnh giữ nước của toàn dân tộc. Phát huy vai trò nền quốc phòng toàn dân là phát huy sức mạnh tổng hợp được xây dựng từ nền tảng chính trị, tinh thần, trí tuệ, sức lực của người dân Việt Nam, những giá trị đã được chứng minh là nguồn cội sức mạnh quốc phòng Việt Nam. Bài viết phân tích một số nội dung nhằm phát huy vai trò của nền quốc phòng toàn dân trong thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Từ khóa: chủ nghĩa xã hội; độc lập dân tộc; quốc phòng toàn dân

1. Đặt vấn đề
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”(1). Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho nhân dân Việt Nam. Thành quả cách mạng đó phải được mỗi người dân ý thức giữ gìn và có trách nhiệm xây dựng, phát huy vai trò của nền quốc phòng toàn dân, tạo thành sức mạnh quốc phòng Việt Nam để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Bảng xếp hạng Sức mạnh quân sự toàn cầu năm 2022 dựa trên cơ sở đánh giá hơn 50 tiêu chí cụ thể, đã xếp Việt Nam đứng thứ 28/142 quốc gia, vùng lãnh thổ(2). Tại phiên toàn thể thứ 4 Đối thoại Shangri-La lần thứ 19 diễn ra tại Singapore ngày 11/6/2022, Đại tướng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã nhấn mạnh, theo quan điểm của Việt Nam, tăng cường tiềm lực quốc phòng không đơn thuần là nâng cao sức mạnh quân sự. Bởi quốc phòng là “công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc”(3). Quốc phòng Việt Nam là nền quốc phòng toàn dân, “là sức mạnh quốc phòng của đất nước, được xây dựng trên nền tảng chính trị, tinh thần, nhân lực, vật lực, tài chính, mang tính chất toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường”(4). Việt Nam xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn quân, toàn dân, của cả hệ thống chính trị; nâng cao sức mạnh tổng hợp toàn diện, cả tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực kinh tế, khoa học công nghệ, nền quốc phòng toàn dân bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội(5).
2. Nội dung phát huy vai trò của nền quốc phòng toàn dân
Xây dựng và phát huy vai trò của nền quốc phòng toàn dân là sự cụ thể hóa đường lối, chủ trương bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam, gồm tổng thể hoạt động về chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự, văn hóa, khoa học… của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta để tạo nên sức mạnh toàn diện. Trong đó, sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang là nòng cốt, theo một chiến lược thống nhất nhằm tạo ra sức mạnh hiện thực để giữ vững hòa bình, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng đất nước, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh xâm lược từ sớm, từ xa và sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức và quy mô. Phát huy vai trò nền quốc phòng toàn dân là phát huy sức mạnh tổng hợp được xây dựng từ nền tảng chính trị, tinh thần, trí tuệ, sức lực của người dân Việt Nam, trong đó có những giá trị đã được chứng minh là nguồn cội sức mạnh quốc phòng Việt Nam. Cụ thể:
Một là, phát huy sức mạnh từ truyền thống dựng nước, giữ nước của cả dân tộc trong hàng nghìn năm lịch sử và từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tư tưởng sâu sắc nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một của Chủ tịch Hồ Chí Minh là lời khẳng định về truyền thống lịch sử quý báu của toàn dân tộc trong đấu tranh xây dựng và bảo vệ đất nước. Ngày nay, phòng thủ đất nước trước các thế lực mạnh hơn về tiềm lực quân sự, về khoa học, kỹ thuật công nghệ, đối phó với chiến tranh công nghệ cao là những thách thức trong công cuộc bảo vệ đất nước. Lịch sử đấu tranh bảo vệ đất nước đã chứng minh sức mạnh của một đạo quân, của vũ khí hiện đại không thể thắng được sức mạnh của một dân tộc đang thực hiện quyền tự vệ chính đáng của mình. Việt Nam quyết tâm sẵn sàng đánh thắng các hình thái chiến tranh xâm lược với sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, bố trí trong một thế trận vững chắc của nền quốc phòng toàn dân kết hợp với thế trận an ninh nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ ngày Đảng ra đời đến nay đã chứng minh vai trò lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Gần một thế kỷ qua cho thấy, ở Việt Nam không có lực lượng chính trị nào khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa dân tộc đến bến bờ vinh quang, giành được hết thắng lợi này đến thành công khác. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng đã tích lũy và đúc rút được nhiều bài học quý báu, hun đúc nên những truyền thống vẻ vang mà các thế hệ người dân Việt Nam có trách nhiệm giữ gìn và phát huy. Đó là truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là truyền thống giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng. Đó là truyền thống gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân, lấy phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu. Đó là truyền thống đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí. Đó là truyền thống đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả(6). Do đó, phát huy sức mạnh từ truyền thống lịch sử Việt Nam là một nội dung quan trọng trong việc phát huy nền quốc phòng toàn dân.
Hai là, phát huy sức mạnh chính trị, tinh thần, ý chí, quyết tâm “toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Sức mạnh ấy kết tinh từ lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, từ truyền thống văn hóa của dân tộc: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(7). Hiện nay, “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”(8). Việt Nam xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng xã hội văn minh, lành mạnh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao.
Ba là, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam là sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trên dưới một lòng, khối đại đoàn kết toàn dân tộc là cội nguồn kết tinh sức mạnh, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Chúng ta xác định: đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam”(9).
Phân tích về “Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì?”(10), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh trong tư tưởng của Bác, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tức là phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, điều quan trọng là phải phát huy được sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc, tập hợp được mọi lực lượng, dân tộc, tôn giáo, mọi người dân Việt Nam yêu nước. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo đúng đắn của một đảng cách mạng chân chính.
Bốn là, sức mạnh của lực lượng, nền quốc phòng toàn dân được xây dựng trên cơ sở lực lượng là toàn thể dân tộc Việt Nam, lực lượng vũ trang là nòng cốt, dưới sự lãnh đạo của Đảng, “sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển”(11).
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, lực lượng vũ trang đóng vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ; luôn chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước về quốc phòng, an ninh, hoạch định đường lối chiến lược bảo vệ Tổ quốc; đánh giá, dự báo đúng tình hình, xử lý tốt các tình huống, không để bị động, bất ngờ, nhất là trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo và sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước.
Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt cùng toàn Đảng, toàn dân lập nên những chiến công hiển hách trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thắng lợi đó là kết tinh, hội tụ bởi nhiều yếu tố; trong đó, sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, sáng suốt của Đảng đối với Quân đội là nhân tố có ý nghĩa quyết định(12).
Lực lượng Công an nhân dân đã thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đóng góp rất quan trọng vào việc hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, đối ngoại của đất nước, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân. Trong bối cảnh tình hình khủng bố, phá hoại, xung đột sắc tộc, dân tộc, tôn giáo, tranh giành quyền lực, đảo chính, chiến tranh cục bộ diễn ra phức tạp ở nhiều nơi trên thế giới, đất nước ta vẫn giữ vững được ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, được cộng đồng quốc tế đánh giá là đất nước thanh bình, là điểm đến an toàn của bạn bè quốc tế(13).
Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, rộng khắp, chất lượng ngày càng cao; là một thành phần của quân đội nhân dân, là lực lượng quan trọng góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân sẵn sàng bổ sung cho lực lượng thường trực khi có yêu cầu. Cùng với lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, thực hiện “trăm họ là binh”, là một yếu tố tạo nên sức mạnh quốc phòng của Việt Nam, tiếp nối truyền thống “ngụ binh ư nông” của cha ông ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
Nền quốc phòng toàn dân là cơ sở để phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, hoàn toàn thống nhất mục tiêu “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra. Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta xác định sức mạnh nội lực, ý chí tự chủ, tự lập, tự cường luôn là nguồn sức mạnh to lớn nhất, vững chắc nhất để bảo vệ Tổ quốc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, dựa trên nền tảng “phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên” để xây dựng sức mạnh quốc phòng nhằm bảo vệ Tổ quốc.
3. Giải pháp phát huy vai trò của nền quốc phòng toàn dân trong thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bao gồm xây dựng tiềm lực quốc phòng, lực lượng quốc phòng, thế trận quốc phòng và cơ chế lãnh đạo, quản lý quốc phòng, tập trung vào một số giải pháp sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và nhân dân về vai trò của nền quốc phòng toàn dân trong thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc của Việt Nam gắn liền với xây dựng chủ nghĩa xã hội, “Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội”(14), do đó, Đảng xác định bên cạnh bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng với sự nghiệp quốc phòng an ninh, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân, phát huy vai trò của nền quốc phòng toàn dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc bởi “Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển”(15).
Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc việc phát huy vai trò của nền quốc phòng toàn dân trong thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là chủ trương nhất quán, lâu dài của Đảng trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc phát huy vai trò, sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân là tạo nên sức mạnh toàn diện, cân đối, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, tạo thế và lực giữ vững hòa bình, ổn định, tạo nền tảng xây dựng và phát triển đất nước. Do đó, xây dựng và phát huy vai trò của nền quốc phòng toàn dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân.
Trong giai đoạn hiện nay, cần thực hiện các giải pháp: đổi mới chất và lượng công tác giáo dục quốc phòng, an ninh cho thế hệ trẻ; nâng cao nhận thức và tạo sự đồng thuận trong quán triệt và triển khai hiệu quả nhiệm vụ xây dựng khu vực phòng thủ; tuyên truyền và thực hiện tốt công tác hậu phương quân đội; giáo dục về lịch sử dân tộc, lòng yêu nước, khơi dậy tinh thần và ý chí, quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, dân tộc cường thịnh, trường tồn đều góp phần phát huy vai trò của nền quốc phòng toàn dân trong thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, xây dựng tiềm lực chính trị – tinh thần, cụ thể là nhận thức, ý chí, niềm tin, tâm lý, tình cảm của nhân dân và lực lượng vũ trang trước nhiệm vụ quốc phòng của đất nước, “xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”(16).
Muốn “củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại”(17) cần tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân: “Sự lãnh đạo của Đảng là ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(18), “Một đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tụy, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân ủng hộ, thì đảng đó có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên”(19), Đảng có mạnh thì dân tộc mới mạnh, vì Đảng là đội tiên phong, là người lãnh đạo của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc.
Thứ ba, tiếp tục phát triển nhận thức và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng tiềm lực kinh tế làm cơ sở vật chất của các tiềm lực, lực lượng quốc phòng.
Trong những năm qua, nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt hơn 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Để xây dựng tiềm lực kinh tế của nền quốc phòng toàn dân, cần quán triệt và triển khai thực hiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhận thức “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối… Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội(20).
Thứ tư, xây dựng, củng cố vững chắc hệ thống chính trị bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, trong đó, trọng tâm là xây dựng và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền các cấp để làm nền tảng xây dựng lực lượng quốc phòng.
Hệ thống chính trị là hạt nhân của lực lượng quốc phòng, có vai trò quyết định trong huy động, phát huy sức mạnh quốc phòng của đất nước. Trong hệ thống chính trị, việc xây dựng, củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức quần chúng có ý nghĩa rất quan trọng để tập hợp, vận động quần chúng thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, trực tiếp đấu tranh bảo vệ địa phương, cơ quan đơn vị, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh chúng ta phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh: “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là một tư tưởng lớn, mang tầm chiến lược trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Với đường lối chính trị sáng suốt, đúng đắn, nhất quán, Người luôn coi trọng xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, lấy liên minh công – nông – trí thức do Đảng lãnh đạo làm nền tảng, thành một thực thể chính trị to lớn, rộng rãi, vững chắc, tập hợp mọi lực lượng, dân tộc, tôn giáo, mọi người dân Việt Nam yêu nước, hợp thành sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm cho Mặt trận hoàn thành sứ mệnh vẻ vang của mình trong tiến trình lịch sử của cách mạng Việt Nam”(21).
Xây dựng hệ thống chính trị, đặc biệt là xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa theo cách tiếp cận và yêu cầu mới là hình thành đồng bộ thể chế phát triển đất nước dựa chủ yếu vào nền tảng khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo, phát huy cao độ nhân tố con người là chủ thể phát triển, tạo động lực mạnh mẽ để đất nước phát triển nhanh, bền vững, thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, không rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”, thực hiện thành công mục tiêu trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI(22).
Thứ năm, kiên định thực hiện nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và nền quốc phòng toàn dân. Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đường lối và quyết định các vấn đề liên quan đến chiến lược bảo vệ Tổ quốc, thông qua các tổ chức đảng giữ vai trò lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị trong các hoạt động quốc phòng.
Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân nhằm xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức “mọi hoạt động của lực lượng công an phải tuân thủ và bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, của Nhà nước, phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước”(23), “Quân đội ta là Quân đội nhân dân, Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và được đặt dưới sự lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” của Đảng; do vậy Quân đội phải tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, gắn bó máu thịt với nhân dân”(24). Quán triệt vai trò lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và nền quốc phòng toàn dân, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cần chủ động, kiên quyết đấu tranh mạnh mẽ, hiệu quả hơn trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang của các thế lực thù địch, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng đối với nền quốc phòng toàn dân. “Trước đòi hỏi của tình hình mới, với điều kiện và khả năng của mình, hơn ai hết, Quân đội phải đi đầu trong đấu tranh phản bác mạnh mẽ hơn nữa đối với những quan điểm sai trái, thù địch, không chỉ trên báo chí, mà ngay trong nội bộ cũng như ngoài xã hội, tuyệt đối không để những quan điểm sai trái xuất hiện, tồn tại trong Quân đội”(25).
Tóm lại, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Nền quốc phòng Việt Nam không chỉ hướng đến mục tiêu “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” mà còn “bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa”(26). Do đó, phát huy vai trò của nền quốc phòng toàn dân thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để thực hiện nhiệm vụ chiến lược đó, rất nhiều nhận thức, giải pháp cần được quán triệt và triển khai, trong đó, nhiều nội dung đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phân tích sâu sắc trong tác phẩm Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là định hướng, kim chỉ nam cho hoạt động lý luận và thực tiễn của Việt Nam./.

————————————————

(1), (5), (6), (8), (9), (10), (11), (12), (13), (14), (15), (18), (19), (20), (21), (22), (23), (24) và (25) Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.22, 51, 208-209, 27, 29, 327, 37, 245, 451, 36, 37, 106, 212, 25-26, 235, 280, 457, 443 và 446
(2) 2022 Military Strength Ranking, nguồn: https://www.globalfirepower.com/countries-listing.php
(3) Khoản 1 Điều 2 Luật Quốc phòng năm 2018
(4) Điều 7 Luật Quốc phòng năm 2018
(7) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.38
(16), (17) và (26) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.157, 35 và 117

(Tạp chí Khoa học Chính trị Số 10/2022)