TS. HỒ NGỌC TRƯỜNG(*)

(*) Trường Chính trị Tôn Đức Thắng

An Giang là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long, có sông Tiền và sông Hậu chảy qua, có đường biên giới với chiều dài gần 100 km giáp hai tỉnh Kandal và Takeo của Vương quốc Campuchia. Tỉnh có diện tích 3.536,7 km2, bằng 1,03% diện tích của cả nước, đứng thứ tư so với 12 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. An Giang có 11 đơn vị hành chính cấp huyện (2 thành phố, 2 thị xã và 7 huyện) với 156 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó Chính phủ công nhận 21 xã vùng núi, 6 xã vùng dân tộc đồng bằng. Đảng bộ tỉnh hiện có 15 đảng bộ trực thuộc, trong đó, có 11 đảng bộ huyện, thị, thành phố và 04 đảng bộ khối, ngành, gồm 829 tổ chức cơ sở đảng (493 chi bộ và 336 đảng bộ cơ sở), với 64.168 đảng viên, chiếm 3,36% dân số toàn tỉnh(1). Phát huy ưu thế về sản xuất nông nghiệp, những năm gần đây, kinh tế tỉnh An Giang có những bước khởi sắc đáng kể. Cùng với phát triển nông nghiệp, cơ cấu kinh tế của tỉnh đang chuyển dịch theo hướng tích cực. Đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân trên địa bàn tỉnh phong phú, đa dạng, chính trị – xã hội ổn định, an sinh xã hội có nhiều tiến bộ, quốc phòng an ninh tiếp tục được bảo đảm, chất lượng cuộc sống nhân dân ngày càng phát triển.
Với sự quyết tâm, nỗ lực của toàn hệ thống chính trị, công tác xây dựng Đảng ở tỉnh An Giang thời gian qua đạt được những thành tựu chủ yếu trên các lĩnh vực(2):
Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng: Ban Thường vụ Tỉnh ủy lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng tập trung quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện kịp thời, đầy đủ các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nhất là học tập, quán triệt và triển khai thực hiện kết luận, quy định của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, tổ chức đợt sinh hoạt chính trị về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; Chuyên đề năm 2022 của tỉnh “Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, đủ phẩm chất, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII; tổ chức Hội nghị thông báo kết quả Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII; Kế hoạch tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII; Công tác tuyên truyền được thực hiện thường xuyên, nội dung và phương thức tuyên truyền tiếp tục có nhiều đổi mới và phát huy hiệu quả, nhất là đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức về phòng, chống dịch COVID-19; tuyên truyền kỷ niệm 190 năm thành lập tỉnh An Giang (22/11/1832 – 22/11/2022)… Hoạt động Ban Chỉ đạo, Tổ Thư ký giúp việc, Nhóm Chuyên gia của Ban Chỉ đạo 35 đi vào nền nếp, góp phần định hướng tư tưởng chính trị cho cán bộ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, đấu tranh có hiệu quả với âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa.
Công tác xây dựng Đảng về đạo đức: Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ban hành các kế hoạch về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới.
Công tác xây dựng Đảng về tổ chức và cán bộ: Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện quy trình bổ sung quy hoạch cán bộ nhiệm kỳ 2020 – 2025, 2021 – 2026 và quy hoạch cán bộ nhiệm kỳ 2025 – 2030, 2026 – 2031 của Tỉnh ủy, các sở, ban, ngành cấp tỉnh, các đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy; quy trình bổ sung 04 tỉnh ủy viên nhiệm kỳ 2020 – 2025 và tổ chức hội nghị cán bộ chủ chốt kiện toàn chức danh phó chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh bảo đảm đúng quy trình, quy định; Ban hành Quy định số 1555-QĐ/TU và Kế hoạch số 44-KH/TU ngày 30/3/2022 về thực hiện công tác quy hoạch cán bộ; đồng thời, tổ chức hội nghị triển khai, quán triệt những điểm mới trong công tác quy hoạch cán bộ đến các huyện, thị, thành ủy và đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy.
Bên cạnh những kết quả đạt được, tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh An Giang lần thứ XI, tỉnh An Giang cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, cụ thể: “Việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị gắn với Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII) trong sinh hoạt Đảng, tự phê bình và phê bình chậm đổi mới, thiếu kiểm tra, giám sát; một số nơi chưa quan tâm giải quyết các vấn đề bức xúc, nổi cộm, chưa có giải pháp đột phá trong thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương, đơn vị. Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn triệt để. Việc nắm bắt tư tưởng, định hướng dư luận, giải quyết vấn đề phát sinh có lúc chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao”(3).
Để tiếp tục tăng cường công tác xây dựng Đảng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, tỉnh An Giang cần tập trung thực hiện một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, tăng cường xây dựng Đảng bộ tỉnh trong sạch, vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ
– Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị
Các cấp ủy đảng tiếp tục đổi mới việc ra nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết. Việc cụ thể hoá chủ trương, nghị quyết của cấp trên phải phù hợp với đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ chính trị và lợi ích của nhân dân ở địa phương. Quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm nghị quyết của Đảng, các cấp ủy đảng, bảo đảm nguồn lực để thực hiện và sơ kết, tổng kết thực tiễn kịp thời để góp phần bổ sung hoàn thiện chủ trương, nghị quyết của Đảng hoặc ban hành các nghị quyết mới của cấp ủy địa phương.
Không ngừng củng cố, nâng cao uy tín chính trị của các cấp ủy, tổ chức đảng trong toàn Đảng bộ tỉnh. Nâng cao năng lực dự báo, tầm nhìn, bản lĩnh chính trị, trình độ, trí tuệ đủ sức đề ra chủ trương, nghị quyết, nhiệm vụ chính trị đúng đắn, kịp thời; tiếp tục nâng cao phẩm chất chính trị của đội ngũ đảng viên, đủ sức lãnh đạo và tổ chức thực hiện thắng lợi chủ trương, nghị quyết, nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ trong tình hình mới.
– Coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng
Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo và thực hiện công tác tư tưởng. Nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục, giáo dục và tính hiệu quả của công tác tư tưởng, tạo sự thống nhất trong nội bộ, sự đồng thuận trong xã hội. Đẩy mạnh công tác tư tưởng, lý luận và sơ kết, tổng kết thực tiễn trong thực hiện đường lối đổi mới của Đảng để vận dụng vào điều kiện thực tế của địa phương; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác truyền thông, chủ động định hướng, phối hợp, cung cấp thông tin cho các cơ quan báo chí nhằm tăng cường quảng bá các chủ trương, các mô hình hay của tỉnh, xử lý kịp thời, hài hòa các vụ việc phát sinh trên địa bàn.
Đẩy mạnh đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, nâng cao hiệu quả nắm bắt, xử lý dư luận xã hội, kịp thời định hướng tuyên truyền, phản tuyên truyền, đấu tranh ngăn chặn các thông tin, quan điểm sai trái, thù địch, nâng cao sức đề kháng trong cán bộ, đảng viên, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
– Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức
Thực hiện tốt Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị gắn với Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII, khoá XIII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên… Nâng cao nhận thức, trách nhiệm hành động của cán bộ, đảng viên trong giữ gìn, tu dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và xây dựng đoàn kết nội bộ, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, nêu gương trong việc chấp hành chủ trương giải phóng mặt bằng, thu hồi đất, bồi thường, tái định cư, tạo sự lan tỏa tích cực trong hệ thống chính trị và nhân dân về khát vọng đổi mới, sáng tạo và ý tưởng đột phá cho sự phát triển của tỉnh.
Nghiên cứu, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên theo nội dung “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” phù hợp với tình hình mới và đặc điểm của Đảng bộ tỉnh An Giang làm cơ sở cho mỗi cán bộ, đảng viên tu dưỡng, rèn luyện trong công tác, sinh hoạt, lối sống; làm căn cứ để phê bình, kiểm điểm, đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên hằng năm.
– Đẩy mạnh xây dựng Đảng về tổ chức
Kịp thời sơ kết, tổng kết và nghiên cứu nhân rộng các mô hình thí điểm nhất là ở cấp xã, cấp huyện, gắn với ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp với các quy định của Trung ương và yêu cầu thực tế địa phương trong việc sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.
Củng cố, sắp xếp các mô hình tổ chức cơ sở đảng đồng bộ với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và công tác cán bộ, nhất là ở xã, phường, thị trấn; chú trọng loại hình tổ chức đảng trong doanh nghiệp tư nhân, phát huy tốt vai trò giáo dục, quản lý, kiểm tra, giám sát đảng viên; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, bám sát địa bàn dân cư, nắm bắt kịp thời diễn biến tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân, thực hiện tốt công tác chính trị tư tưởng; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, gần dân, có trách nhiệm với dân, có bản lĩnh chính trị, có phẩm chất đạo đức, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, có khát vọng vươn lên trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, góp phần vào sự phát triển của ngành, địa phương.
Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên mới đủ về số lượng (mỗi năm kết nạp từ 03% so với tổng số đảng viên), bảo đảm về chất lượng (hằng năm có trên 90% đảng viên được đánh giá xếp loại hoành thành tốt nhiệm vụ trở lên); quan tâm chỉ đạo kết nạp đảng viên ở vùng nông thôn, vùng có đông đồng bào dân tộc, tôn giáo, các đơn vị kinh tế tư nhân; rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng; thực hiện tốt công tác quản lý, phân công nhiệm vụ cho đảng viên, nhất là việc quản lý đảng viên đi làm ăn xa.
Tiếp tục quán triệt, nâng cao nhận thức và thực hiện có hiệu quả các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng bao gồm nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, đoàn kết thống nhất trong Đảng, Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân và Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật nhằm không ngừng củng cố sức mạnh của Đảng về tổ chức.
– Tăng cường xây dựng Đảng về cán bộ
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ, coi trọng khâu đánh giá cán bộ, công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Tạo môi trường thuận lợi để cán bộ phát huy năng lực, sở trường, dám nghĩ, dám làm, đổi mới sáng tạo và cống hiến có hiệu quả.
Phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng những đảng viên ưu tú, có triển vọng, chuẩn bị nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nhiệm kỳ 2025 – 2030 và nhiệm kỳ tiếp theo bảo đảm tính kế thừa, ổn định, đổi mới, phát triển theo hướng nâng cao chất lượng, bảo đảm số lượng, cơ cấu hợp lý và quan tâm cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ dân tộc thiểu số. Trong đó, cán bộ do Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý và tương đương phải có trình độ chuyên môn thạc sĩ trở lên và cao cấp lý luận chính trị; 50% cán bộ do ban thường vụ huyện ủy quản lý và tương đương có trình độ chuyên môn thạc sĩ trở lên và cao cấp lý luận chính trị; cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải có trình độ đại học chuyên ngành và trung cấp lý luận chính trị. Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ, chống lạm chức, lạm quyền, chạy chức, chạy quyền… Phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ và thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
Kiên quyết sàng lọc, miễn nhiệm, thay thế, cho từ chức đối với cán bộ làm việc kém hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ, yếu về năng lực, kém về phẩm chất đạo đức, tín nhiệm thấp mà không chờ đến hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu. Thực hiện quy định luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý theo quy hoạch ở các ngành, các cấp bảo đảm cân đối, hài hoà giữa luân chuyển cán bộ với phát triển nguồn cán bộ tại chỗ.
Hai là, tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm và chất lượng, hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành nhất là người đứng đầu về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Đổi mới, kiện toàn ủy ban kiểm tra cấp ủy các cấp, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra theo hướng chuyên nghiệp hóa, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ kiểm tra, giám sát; chủ động xây dựng phương hướng, nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát của nhiệm kỳ và hằng năm có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Tiến hành kiểm tra, giám sát thường xuyên, toàn diện, khách quan, công khai, dân chủ, thận trọng, chặt chẽ, tập trung vào những địa bàn, lĩnh vực nhạy cảm, nổi cộm, dễ phát sinh tiêu cực. Tăng cường phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan kiểm tra, thanh tra, điều tra và các đơn vị có liên quan trong hoạt động kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý nghiêm minh sai phạm.
Thực hiện tốt quy chế phối hợp giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra nhà nước, thanh tra nhân dân và công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội nhằm hạn chế thấp nhất việc vi phạm kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên.
Ba là, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực
Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Các cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu các cấp, các ngành nâng cao nhận thức, phát huy vai trò, trách nhiệm, gương mẫu trong lãnh đạo thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí gắn với công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh ở từng cấp, từng ngành. Phát huy vai trò của báo chí, cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội, cán bộ, đảng viên và nhân dân trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Đẩy mạnh cải cách hành chính, công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, đơn vị, chủ động phòng ngừa tham nhũng, lãng phí. Thực hiện tốt các quy định về kiểm soát quyền lực, trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu, kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức.
Thường xuyên củng cố, kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của tỉnh; nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ chuyên trách làm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở các cơ quan có chức năng; các huyện, thị, thành, các sở, ban ngành, đoàn thể tỉnh, huyện và cấp xã phân công cán bộ theo dõi thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tại cơ sở, cơ quan, đơn vị; các cơ quan có chức năng làm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cần phải quan tâm thực hiện tốt công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong nội bộ.
Bốn là, tăng cường công tác dân vận nhằm thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng bộ tỉnh với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng bộ tỉnh
Nâng cao nhận thức, hành động, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền và hệ thống chính trị về công tác dân vận. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương về công tác dân vận trong hệ thống chính trị, nhất là các cơ quan hành chính nhà nước. Đổi mới công tác dân vận theo hướng thiết thực với cách làm sáng tạo, hướng tới mục tiêu đồng thuận, củng cố niềm tin của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội đổi mới nội dung, phương thức hoạt động hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư, nông thôn, khơi dậy năng lực, trí tuệ, ý thức trách nhiệm, khát vọng phát triển của cán bộ, đảng viên và nhân dân; tăng cường quan hệ mật thiết giữa các cấp ủy, chính quyền với nhân dân cùng thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ chính trị địa phương.
Nâng cao chất lượng các phong trào thi đua, các cuộc vận động, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết cùng chăm lo cho công tác an sinh xã hội. Làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa, xã hội từ thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Tổng kết, biểu dương, nhân rộng các mô hình hay, cách làm sáng tạo, các điển hình tiên tiến trong phát triển kinh tế, an sinh xã hội, các mô hình hiệu quả về “Dân vận khéo” và “Dân vận khéo trong xây dựng nông thôn mới”.
Thường xuyên củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận từ tỉnh đến cơ sở bảo đảm yêu cầu trong tình hình mới. Tăng cường bồi dưỡng, giáo dục kỹ năng làm việc, lao động, sản xuất cho đoàn viên, hội viên, người lao động nhanh chóng thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mới cho phát triển.
Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội và nhân dân giám sát, phản biện, tham gia góp ý xây dựng Đảng, chính quyền. Tăng cường giáo dục đạo đức công vụ, nâng cao trách nhiệm phục vụ nhân dân cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đẩy lùi các biểu hiện thờ ơ, vô cảm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu với dân.
Thực hiện tốt các chính sách về tôn giáo, dân tộc, tạo điều kiện cho sinh hoạt tín ngưỡng và quan tâm giải quyết nhu cầu chính đáng của quần chúng tín đồ đúng giáo luật, pháp luật và nâng cao đời sống nhân dân vùng dân tộc thiểu số. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng sinh hoạt tôn giáo và chính sách dân tộc để vi phạm pháp luật.
Năm là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng trong điều kiện mới
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, cấp ủy các cấp thật sự là hạt nhân chính trị, lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo toàn diện các lĩnh vực đời sống xã hội và lãnh đạo công tác xây dựng Đảng. Đổi mới việc cụ thể hóa, quán triệt, sơ kết, tổng kết và tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên. Đổi mới phong cách, lối làm việc, giảm bớt giấy tờ, hội họp. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng gắn với ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao năng suất, hiệu quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị.
Thực hiện tốt quy chế, quy định đã ban hành; sâu sát và nắm bắt tình hình cơ sở, tăng cường tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe ý kiến góp ý và phản ánh của đội ngũ cán bộ, đảng viên, cán bộ hưu trí và người dân để kịp thời giải quyết, giải đáp thoả đáng; phát huy vai trò của chính quyền các cấp trong việc cụ thể hoá chủ trương, nghị quyết của cấp ủy, tổ chức đảng thành chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, dân tộc, tôn giáo, đối ngoại; đề cao trách nhiệm và sự sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội các cấp trong việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của tỉnh.
Sáu là, xây dựng văn hoá trong Đảng và hệ thống chính trị các cấp trên địa bàn tỉnh
Tập trung xây dựng văn hóa chính trị, trước hết trong Đảng và hệ thống chính trị: nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu, phẩm giá, lòng tự trọng, danh dự của người đảng viên; nêu cao bổn phận, lương tâm, dũng khí và trách nhiệm của người đảng viên trong mọi hoạt động và cuộc sống; nâng cao đạo đức công vụ, đạo đức hành động, đạo đức lối sống; mỗi cán bộ, đảng viên, công chức và viên chức sẵn sàng phấn đấu phục vụ nhân dân, vượt qua khó khăn thử thách, hoàn thành tốt các nhiệm vụ khi Đảng, Nhà nước và nhân dân có yêu cầu.
Cụ thể hóa các chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên trên từng lĩnh vực, trong mỗi thành viên của hệ thống chính trị; tiếp tục triển khai tổ chức thực hiện sâu rộng, thường xuyên, có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII, XIII) và đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị; từng cán bộ, đảng viên, nhất là cấp ủy viên, lãnh đạo, quản lý các cấp và người đứng đầu phải gương mẫu đi đầu thực hiện nêu gương, tạo sự lan tỏa, thúc đẩy, lôi cuốn đảng viên, nhân dân tự giác chấp hành chính sách, pháp luật, tham gia các phong trào thi đua yêu nước.
Đưa nội dung xây dựng văn hóa trong Đảng và hệ thống chính trị trở thành tiêu chí xây dựng và đánh giá tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị; tạo môi trường cho cán bộ, đảng viên tu dưỡng, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống. Tăng cường kỷ cương, kỷ luật để phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với các biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, xử lý nghiêm hành vi vi phạm đạo đức lối sống, quan liêu, xa dân.
Tóm lại, xác định nhiệm vụ xây dựng Đảng là then chốt, trong nhiều năm qua, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang và các cấp uỷ đảng đã tập trung chỉ đạo xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên. Nhiều nghị quyết, đề án, chương trình hành động được ban hành với những giải pháp mang tính đột phá đã tạo chuyển biến mạnh mẽ từ cơ sở, đem lại những kết quả quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, tạo được sự đồng thuận trong nhân dân. Trong những năm tới, tình hình quốc tế, khu vực, trong nước và tỉnh An Giang sẽ gặp không ít khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh, thiên tai, suy thoái kinh tế… đòi hỏi phải có sự nỗ lực, quyết tâm rất lớn của toàn hệ thống chính trị, trong đó xây dựng Đảng được xem là nhiệm vụ then chốt nhằm xây dựng Đảng bộ tỉnh An Giang ngày càng trong sạch, vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ./.

—————————————

(1) Theo Cổng thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh An Giang
(2) Tỉnh ủy An Giang, Báo cáo số 242-BC/TU, ngày 07/12/2022 về công tác xây dựng Đảng, dân vận năm 2022 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2023
(3) Tỉnh ủy An Giang, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 – 2025, tr.48

(Tạp chí Khoa học chính trị Số 04/2023)